Bệnh quai bị do virus có tên khoa học là Paramyxovirut gây nên. Bệnh xuất hiện ở những nơi đông người như nhà trẻ, trường học, ký túc xá, khu tập thể… do lây lan chủ yếu qua đường hô hấp do nước bọt bị nhiễm trùng khi người bệnh nói chuyện, ho hoặc hắt hơi.
Nguyên nhân gây bệnh quai bị
Trước hết chúng ta tìm hiểu nguyên nhân của bệnh quai bị. Một trong số các nguyên nhân dẫn đến mắc bệnh quai bị chủ yếu là do một loại virus có tên khoa học Paramyxovirus gây nên. Hoặc cũng có thể là do tiếp xúc với người bị bệnh quai bị nên bệnh lây lan qua đường hô hấp, đường nước bọt, qua đường ăn uống…
Đường lây truyền:
Quai bị do vi rút gây nên, rất dễ lây qua đường hô hấp và đường ăn uống, qua những giọt nước bọt khi bệnh nhân nói, ho, hắt hơi. Bệnh thường hay gặp ở trẻ nhỏ, cả trẻ lớn và lứa tuổi vị thành niên chưa có miễn dịch quai bị, người lớn cũng có thể mắc nhưng tỷ lệ là thấp hơn. Thời gian lây là từ 6 ngày trước khi toàn phát và đến 2 tuần sau khi có triệu chứng bệnh lý.
Dấu hiệu nhận biết bệnh quai bị
Dấu hiệu nhận biết bệnh quai bị có thể là sưng đau vùng mang tai
- Bệnh quai bị thường rất dễ nhận biết với dấu hiệu sưng đau vùng mang tai, do viêm sưng tuyến nước bọt vùng mang tai. Trước khi sưng 1 – 2 ngày, một số trẻ có cảm giác đau, khó nhai. Vùng mang tai có thể bị sưng cùng lúc hai bên và xuất hiện rất nhanh, đêm hôm trước bình thường, nhưng hôm sau sưng to cả hai bên. Cũng có thể sưng một bên, sau đó vài ngày sưng bên kia.
- Bên cạnh triệu chứng sưng vùng mang tai, benh quai bi o tre em có thể kèm theo sốt, đau đầu, đau cơ, mệt mỏi, buồn nôn, ói. Đa số các trường hợp thường sốt nhẹ và chỉ kéo dài 1 – 2 ngày. Triệu chứng của bệnh sẽ tự lui dần sau 5-7 ngày nếu không có biến chứng. Vùng mang tai sẽ giảm sưng dần, trẻ ăn uống sẽ dễ hơn và hồi phục hoàn toàn sau 7-10 ngày.
- Khi trẻ có các dấu hiệu quai bị, cha mẹ cần đưa trẻ đi khám để xác định và kết quả nếu đúng là bệnh quai bị, thì cần chăm sóc trẻ theo sự hướng dẫn của bác sĩ, như: Hạ nhiệt bằng cách lau mình trẻ bằng nước ấm (không được lau bằng nước lạnh); cho trẻ uống nhiều nước và súc miệng bằng nước muối sinh lý hay nước súc miệng có bán tại các hiệu thuốc nhằm chống khô miệng; cho trẻ ăn loãng hoặc ăn bằng ống hút nếu trẻ khó nuốt; cho trẻ nằm trên giường với một chai nước nóng bọc trong khăn để áp vào bên má bị đau; không được cho trẻ nô đùa, chạy nhảy vì những hoạt động này rất dễ dẫn đến biến chứng ở tinh hoàn.
- Trường hợp nếu bệnh tình ngày càng nghiêm trọng cần đưa trẻ đến bệnh viện ngay để được khám và điều trị kịp thời khi có các biểu hiện biến chứng.
- Viêm tinh hoàn, nhiễm trùng tinh hoàn.
- Ngoài ra, còn có nhiều biến chứng khác nặng nề hơn như viêm tụy cấp, viêm não, viêm cơ tim, nhưng rất hiếm gặp.
- Viêm buồng trứng, nhiễm trùng buồng trứng. Với bé gái, khi có biến chứng viêm buồng trứng sẽ có triệu chứng đau bụng nhiều và cần được siêu âm để chẩn đoán. Biến chứng này cần điều trị đúng và kịp thời để tránh di chứng vô sinh sau này.
Về cách phòng bệnh, điều trước tiên người bệnh phải được cách ly tại nhà. Khi tiếp xúc với người bệnh phải mang khẩu trang. Thời gian cách ly người bệnh trong khoảng 10 ngày kể từ khi bắt đầu sưng tuyến mang tai. Ngày nay, mọi người thường được tiêm phòng để tạo miễn dịch chủ động như dùng vaccine Trimovax hay MMR. Vaccine không nên tiêm cho trẻ dưới 1 tuổi, tuy nhiên, nếu trẻ sống trong môi trường dịch bệnh có thể tiêm ngừa từ 9 tháng tuổi. Không tiêm cho phụ nữ có thai, người bị dị ứng với vaccine, người đang dùng thuốc gây giảm miễn dịch như corticoid, thuốc điều trị ung thư, người đang điều trị với tia phóng xạ,…
Xem thêm: > Bệnh tay chân miệng ở trẻ em có nguy hiểm không?
0 nhận xét: